Khải Định là vị vua đời thứ 12 của vương triều Nguyễn. Có rất nhiều lời đồn đại về chuyện ông mắc căn bệnh bất lực, không thích gần đàn bà mà chỉ thích đàn ông, khiến chốn hậu cung biết bao tiếng thở dài buồn bã.
Vị vua 10 năm không biết mùi phòng the?
Vua Khải Định sinh ngày 8/10/1885, là vị vua đời thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn. Ông tên Nguyễn Phúc Tuấn (còn gọi là Nguyễn Phúc Bửu Đảo), con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Dương Thị Thục.
Nǎm 1906, ông được phong tước Công nên người đương thời gọi ông là Phụng Hóa Công. Cũng như bao người khác, khi đến tuổi lập gia thất, Bửu Đảo lấy vợ và người con gái được lựa chọn xuất thân trong gia đình quyền thế, như vậy mới tương xứng với địa vị của một ông hoàng, đó là tiểu thư họ Trương, con Trương Như Cương, quan đại thần có quyền thế và giàu có bậc nhất lúc bấy giờ.
Cuộc hôn nhân này không mấy hạnh phúc vì Bửu Đảo chỉ ham đánh bạc mà lạnh lùng chăn gối nơi buồng the vì thế không lâu, sau bà phủ thiếp họ Trương quyết định dứt áo ra đi, xuất gia tu hành tại một ngôi chùa ở độn Sầm, làng Thanh Thuỷ, huyện Hương Thuỷ (cách kinh thành Huế chừng 3km về phía Nam), lấy pháp hiệu là Đạm Thanh, biệt hiệu là Tuyết Nhan.
Bị vợ bỏ, ông hoàng Bửu Đảo phải dựa vào sự chăm sóc của những người hầu trong phủ. Có một người hầu gái trẻ trung, xinh đẹp là Hoàng Thị Cúc đã mang thai và nhất quyết cái thai đó là giọt máu của ông hoàng Bửu Đảo, cho dù thân mẫu của ngài dùng mọi cách để tìm ra sự thực ai là “tác giả” của nó.
Khi cô Cúc sinh một người con trai bụ bẫm, kháu khỉnh, Bửu Đảo công nhận đó là con của mình, mặc cho những lời đồn đại xì xào ở khắp trong triều ngoài xứ. Ông đặt tên con là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy; đây cũng là người con duy nhất của Bửu Đảo, kể cả khi ông lên ngôi vua lấy niên hiệu là Khải Định và có thêm nhiều bà vợ khác.
12 bà vợ của Vua Khải Định phải sống trong cảnh cô đơn, lạnh lẽo. Trong các thú vui của ông hoàng này không hề có tình dục. Suốt 10 năm làm vua, Khải Định không ăn nằm với bà vợ nào. Ông đã nuôi Nguyễn Đắc Vọng làm thị vệ. Ban đêm, vua ôm ông Vọng mà ngủ. Và cũng nhờ sự khéo léo trong việc phục tùng này mà ông Vọng được thăng chức nhanh lên Ngũ đẳng Thị vệ.
Với những người vợ còn lại, có lẽ muốn bù đắp cho họ sự thiếu hụt về tình cảm vợ chồng, sự ái ân nồng thắm mà mình không mang lại được nên Khải Định bù đắp bằng việc gia ân tước hiệu cho các bà.
Tháng 2 năm Đinh Tị (1917), Khải Định ban dụ tấn phong cho các phi tần theo thứ bậc khác nhau, trong đó có đoạn viết: “Từ ngày xưa, các bậc đế vương không ai là không chăm lo vun vén nơi căn bản trước tiên. Trẫm từ khi chưa lên ngôi đã được Lưỡng cung giáng chỉ dụ khuyên nên sớm quyết định việc này cho được yên bề, ngờ đâu vì nội chính rối ren nên đàn cầm chưa ngân thành điệu.
Từ ngày tức chính tới nay vẫn tâm niệm làm tròn chữ hiếu nên luôn nghĩ trước lo chấn chỉnh phong hóa tôn xã, rồi sau mới đến chuyện trong cung. Vì nghĩ rằng thứ bậc cung phi đảm đương trợ giúp cho vương hóa, nếu không là người am tường thì khó lái huy xa (loại xe dùng cho hoàng phi). Vì thế, ngôi chính nội đình vẫn còn để trống, là có ý đợi người vậy.
Nhưng xét thấy mấy người thiếp từ khi trẫm còn chưa lên ngôi vẫn hầu phụng trẫm đã nhiều năm, đáng nên thương đến mà vinh danh. Trong đó, có Hoàng Thị Cúc, nguyên là người được từ chỉ của hoàng thái phi tuyển vào hầu hạ ở dinh hoàng tử, rất được lòng bề trên, lại sớm ứng điềm mộng lành mà sinh con trai, truyền tấn phong làm Tam giai Huệ tần, Trần Đăng Thị Thông làm Thất giai Qúy nhân, Ngô Thị Trang làm Cửu giai Tài nhân, đều được hưởng ân sủng”.
Riêng với bà Hồ Thị Chỉ, là người vợ được vua Khải Định coi trọng nhất, vị trí đứng đầu nội cung đã được phong cho bà. Tháng 8 năm Đinh Tị (1917) vua phong bà làm Nhất giai Ân phi. Bài dụ phong có viết: “Nay xét ngôi phi nắm giữ việc nội chính, từ lâu vẫn còn để khuyết, chưa tìm được người thì biết trao ai?
Vị trí này để trống là để đợi tìm được người hiền biết làm vui lòng bề trên, đồng thời chu toàn tứ đức, tránh cho trẫm khỏi phải áy náy mà để tâm vào việc nội trị bên trong, thì sẽ tấn phong cho cấp bậc cao quý. Nay kính nhận được từ dụ của Lưỡng cung nói rằng, nhà vua đã vất vả vào việc cơ vụ thì nội chính không thể thiếu người phụ tá để trông nom, sai khiến nội thuộc, nên chọn một người cung phi thay mặt trông nom hầu hạ già này, đỡ cho nhà vua khỏi phải bận tâm lo nghĩ".
Vì bất lực?
Cũng Theo sách "Chuyện các bà trong cung Nguyễn" của Nguyễn Đắc Xuân có viết rằng, Đệ nhất Gia phi họ Trương là ái nữ quan đại thần Trương Như Cương, được cưới làm phủ thiếp khi vua Khải Định còn là Phụng Hoá Công ở Tiềm đế (sau xây thành cung An Định).
Lúc đó, ”ngài” Phụng Hoá Công còn hàm vĩ nhưng lại ham chơi cờ bạc thâu đêm suốt sáng. Cứ mỗi lần thua bạc là một lần bắt bà vợ họ Trương về xin tiền cha mẹ để “ngài” gỡ… Vì thương con gái, ông bà Trương Như phải bấm bụng chiều theo, thoả mãn mọi yêu sách của chàng rể vương tôn. Thấy thế, Phụng Hoá Công đinh ninh của cải nhà nhạc gia là vô tận nên càng cờ bạc ăn chơi đã đời…Thế nên, nhiều lần, bà phủ thiếp Phụng Hoá Công đã bị cha mẹ quở trách nặng nề…
Một hôm, vào khoảng năm 1915, Phụng Hoá Công nảy ý định mở một chén bạc lớn để thử thời vận. Khi thấy Công hô lớn, nhưng trên chiếu đã sạch tiền, các con bạc chận tay Công lại, đòi phải trưng đủ tiền chung mới được mở chén.
Thâm tâm Công đã muốn mở liều, không ngờ bị lật tẩy… Một phần vì muốn ăn to, phần vì sợ mất mặt, Phụng Hoá Công liền bảo vợ về nhà xin tiền… Bà phủ thiếp họ Trương đau đớn vì thấy đức ông chồng đã bất lực, mà chẳng còn biết liêm sỉ, bà dùng dằng không muốn đi… Phụng Hóa Công nổi nóng la lối om sòm, doạ sẽ có thái độ với bà. Cuối cùng, bà đã đi và đó cũng là lần cuối cùng bà về nhà xin tiền cha mẹ cho chồng cờ bạc…
Ngán ngẩm sự đời, bà họ Trương quyết định dứt áo ra đi, giã từ cuộc đời làm phù thiếp.
Cảnh phi tần bị bỏ rơi, ruồng rẫy ở triều đại nào cũng có, nhưng giống như cuộc sống muôn vàn màu sắc, các phi tần cũng mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Riêng phi tần của vua Khải Định đều có nỗi đau khổ chung, không phải vì kém nhan sắc, vì phải tranh giành nhau để được nhận sủng ái hay vì vua có quá nhiều mỹ nữ nên không để ý tới mình, mà bởi vì Khải Định chỉ ưa… đàn ông mà thôi .
Chưa kể, vào ngày lễ hội tổ chức những buổi vũ múa do cung tần mỹ nữ đảm trách, vua Khải Định nhìn những màn vũ một cách buồn chán. Có lúc ông còn bảo quan hãy dẹp những màn vũ ấy và thay thế vào những màn vũ công nam. Vua Khải Định lấy làm thích thú, còn ra lệnh những vũ công nam cần phải thoa phấn, đánh má hồng và tô môi son đỏ; thậm chí cho họ mặc áo quần màu lòe loẹt…
Nhiều người biết Khải Định bất lực, chính vua cũng nhận điều đó. Thế nhưng, các quan đại thần vẫn muốn “tiến” cung con gái để được làm ông nhạc (bố vợ) của vua, mong hưởng nhiều quyền lợi. Vào những lúc đó, vì khó lòng chối từ, vua thường nói với các quan: “Nội cung của Trẫm là một cái chùa (ý nói không có chuyện ái ân tình dục), ai muốn vào tu thì cứ vào!”.
Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu tâm lý hiện nay, vua Khải Định không phải bất lực, mà là không thích gần đàn bà. Trong cuốn "Chuyện nội cung các vua Nguyễn", ông Nguyễn Đắc Xuân viết: “… Những buổi sáng phải ra điện Cần Chính thiết triều, các bà đứng hai hàng bái yết đón chào, vua liền dùng tay ôm gọn hai vạt áo bào sát vào người để khỏi vướng vào đàn bà”.
Ca dao có câu: “Một ngày dựa mạn thuyền rồng/Cũng bằng muôn kiếp ở trong thuyền chài”, cứ tưởng trở thành vợ vua là được sống trong tột đỉnh vinh quang, hạnh phúc nhưng với các phi tần của Khải Định, họ vẫn có những nỗi muộn phiền, buồn chán khó nói nên lời.
Đăng nhận xét